Việc phân chia di sản khi Sổ đỏ đứng tên hộ khá phức tạp, nhất là khi xác định phần nào sẽ được chia, việc xác định này ảnh hưởng trực tiếp đến phần được thừa kế và các nghĩa vụ có thể phát sinh.
* Điều kiện để Sổ đỏ đứng tên hộ gia đình
Khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định:
“Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.”
Theo đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ cấp Giấy chứng nhận cho hộ gia đình sử dụng đất nếu có đủ các điều kiện sau:
Điều kiện 1: Có quan hệ hôn nhân (vợ chồng), quan hệ huyết thống (cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ, ông nội, bà nội với cháu nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại,…), quan hệ nuôi dưỡng (cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi).
Điều kiện 2: Đang sống chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất (thời điểm nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế,…).
Điều kiện 3: Có quyền sử dụng đất chung bằng các hình thức như: Cùng nhau đóng góp, tạo lập hoặc được tặng cho, thừa kế chung…
Lưu ý: Trên thực tế để xác định cùng nhau đóng góp, tạo lập khá phức tạp, trong nhiều trường hợp không thể xác định được; hướng giải quyết trên thực tế khi đó phụ thuộc vào Giấy chứng nhận cấp cho hộ gia đình (Sổ đỏ, Sổ hồng có dòng chữ “hộ ông” hoặc “hộ bà”). Xảy ra thực tế này vì trước đây có nhiều địa phương cấp Giấy chứng nhận cho “hộ ông”, “hộ bà” mà không cần đáp ứng đủ điều kiện trên.
* Xác định di sản để chia thừa kế
– Ý nghĩa xác định di sản: Xác định di sản trong khối tài sản chung là quyền sử dụng đất của gia đình sử dụng đất rất quan trọng vì ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của người thừa kế. Nói cách khác, việc xác định di sản đối với tài sản thừa kế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền của người được hưởng và nghĩa vụ theo di sản thừa kế (nếu có).
– Cách xác định: Tùy từng trường hợp cụ thể mà mức độ khó khăn để xác định là khác nhau. Để xác định chính xác cần dựa vào 03 căn cứ trên.
Ví dụ: Năm 2000, Uỷ ban nhân dân quận B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông A với diện tích 300m2, nguồn gốc chiếm đất là do Nhà nước cấp cho hộ gia đình, thời điểm cấp. Đó là vào năm 1990, khi đó hộ gia đình ông A gồm có 03 thành viên: ông A, vợ và con trai ông. Năm 2018, con ông A kết hôn; Năm 2021 ông A chết. Khi chia thừa kế thì phần thừa kế được xác định như sau: 300m2 được chia đều cho 03 người, mỗi người được hưởng 100m2 (tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận, hộ gia đình ông A có 03 thành viên cùng chung sống, các thành viên có sử dụng chung đất quyền do nhà nước giao đất cho hộ gia đình, do được chia chung nên các con của ông A tuy còn nhỏ nhưng vẫn có quyền sử dụng đất như cha mẹ); Con dâu ông A không chia quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông A do không đáp ứng các điều kiện nêu trên.
Tóm lại, phần thừa kế trong ví dụ trên là 100m2, hay nói cách khác khi chia thừa kế chỉ còn 100m2.
Sau khi xác định hàng thừa kế phải xem người để lại di sản có di chúc không, nếu có di chúc hợp pháp thì chia theo di chúc, nếu không có thì chia theo pháp luật hoặc chia theo cả hai di chúc. di chúc và theo pháp luật theo di chúc khi một phần di chúc không hợp pháp hoặc không định đoạt toàn bộ phần di sản là quyền sử dụng đất.
Di chúc bao gồm di chúc miệng và di chúc bằng văn bản. Di chúc bằng văn bản bao gồm:
– Di chúc không có người làm chứng.
– Di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
– Di chúc bằng văn bản có công chứng.
– Di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Di chúc miệng được quy định như sau: Điều 629 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định trường hợp tính mạng của một người bị đe dọa đến tính mạng mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì di chúc miệng có thể được thực hiện. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm lập di chúc miệng, nếu người lập di chúc còn sống, còn sức khỏe, sáng suốt thì di chúc miệng đương nhiên bị hủy bỏ.
Theo quy định tại Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 thì di chúc hợp pháp là di chúc phải có đủ các điều kiện sau đây:
– Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt khi soạn thảo di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
– Nội dung di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không vi phạm đạo đức xã hội; hình thức của di chúc không trái với quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 626 Bộ luật dân sự 2015 thì người lập di chúc có quyền phân định phần di sản cho từng người thừa kế. Nói cách khác, số tiền mà người thừa kế được hưởng phụ thuộc vào nội dung của di chúc nếu di chúc hợp pháp.
Lưu ý: Những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 quy định:
“thứ nhất. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được hưởng di sản hoặc chỉ được hưởng di sản theo pháp luật”. người lập di chúc: phần di sản ít hơn 2/3 phần này:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con đã thành niên không có khả năng lao động.
Theo đó, con chưa thành niên của người lập di chúc, cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên không có khả năng lao động được hưởng phần di sản bằng 2/3 của người thừa kế theo pháp luật nếu người lập di chúc không được ủy quyền hưởng di sản hoặc nhận ít hơn 2/3 phần di sản này.
Các quy định liên quan đến người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung quy định trên sẽ không áp dụng đối với những người từ chối nhận di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản.
Điều 650 khoản 1 BLDS 2015 quy định về chia di sản thừa kế theo pháp luật trong các trường hợp sau đây:
– Không di chúc.
– Di chúc không có giá trị pháp lý.
– Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức có quyền thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế.
– Người được chỉ định là người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Ngoài ra, thừa kế theo pháp luật còn được áp dụng đối với phần di sản sau là quyền sử dụng đất:
– Phần di sản không được xác định trong di chúc.
– Phần di sản gắn liền với phần di chúc không có hiệu lực pháp luật.
– Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Căn cứ Điều 649 và Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, người được hưởng thừa kế theo pháp luật là người thuộc diện thừa kế và hàng thừa kế.
– Diện thừa kế:
Là người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản (quan hệ nuôi dưỡng là con nuôi, cha nuôi, mẹ nuôi,… và phải có quyết định đăng ký nhận con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứ không phải là con nuôi theo hình thức tự nhận tại một số địa phương).
– Hàng thừa kế:
Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định hàng thừa kế theo thứ tự sau:
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
Lưu ý: Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản (theo khoản 3 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015).
Khoản 2 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.”
Tóm lại, nếu nhà đất được chia thừa kế theo pháp luật thì người thừa kế sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau. Trên thực tế, phần lớn là những người thừa kế thứ nhất nhận di sản, rất ít trường hợp người thừa kế thứ hai, thứ ba nhận di sản.
Kết luận: Việc chia di sản khi Sổ đỏ đứng tên hộ gia đình khác với trường hợp bất động sản là tài sản chung của vợ, chồng hoặc tài sản riêng của người chết ở chỗ cần xác định phần của phần tài sản chung như quyền sử dụng đất đã có Sổ đỏ, Sổ hồng được cấp cho hộ gia đình.