Nội dung bài viết:
Giao dịch dân sự giữa chồng chị và ngân hàng là giao dịch dân sự vô hiệu.
Căn cứ theo quy định tại Điều 127 Bộ Luật dân sự 2015: “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.”
Chị có thể làm đơn lên Tòa án yêu cầu tòa tuyên bố giao dịch dân sự giữa chồng chị và ngân hàng là vô hiệu.
Hành vi của chồng chị có thể bị ngân hàng kiện vì tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối, làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó.
Về khách thể: Hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác.
Mặt chủ quan: Thực hiện với lỗi cố ý. Chồng chị đã có suy tính từ đầu, vì vậy nên đã làm giả chữ ký của chị và sau đó đến ngân hàng vay tiền.
Về hành vi khách quan: Dùng thủ đoạn gian dối và chiếm đoạt tài sản của người khác.
– Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Chồng chị đã giả chữ ký của chị để vay tiền của ngân hàng, gian dối đưa ra thông tin giả, chữ ký giả để ngân hàng giao tiền.
– Chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối. Chồng chị bằng thủ đoạn gian dối của mình đã lừa dối ngân hàng và chiếm giữ số tiền đã vay được. Hành vi chiếm đoạt số tiền 200 triệu đồng gắn liền với hành vi dùng thủ đoạn gian dối.
Hành vi của chồng chị có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ Luật hình sự. Theo căn cứ trên, ngân hàng hoàn toàn có thể kiện chồng chị về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014:
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật này: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
Theo các quy định trên, quyền sử dụng đất mà chị có được sau khi kết hôn sẽ được coi là tài sản chung của vợ chồng. Nếu chị nêu được những căn cứ chứng minh rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này là do bố mẹ tặng cho riêng chị thì nó sẽ được coi là tài sản riêng mà không phải thực hiện chia tài sản chung theo quy định trên.