Cam kết ngoại bảng là gì? (Cập nhật 2023)

Cam kết ngoại bảng là gì? Quy định về cam kết ngoại bảng trong hoạt động tín dụng? Hoạt động ngoại bảng của các NHTM Việt Nam?

Cam kết hay cam kết là tuân theo các điều khoản của cam kết, cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ. Nhiều thuật ngữ được sử dụng xung quanh câu hỏi này. Rủi ro ngoại bảng thực chất là một thuật ngữ thường được sử dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng.

Cam kết ngoại bảng là gì? Quy định về cam kết ngoại bảng trong tổ chức tín dụng
Cam kết ngoại bảng là gì?

1. Cam kết ngoại bảng là gì?

Cam kết ngoại bảng được biết đến là một thuật ngữ được sử dụng với mục đích chính là đề cập đến những việc như cam kết chi trả, cam kết trả nợ, gia hạn tín dụng, v.v. hoặc hợp đồng tạo ra tỷ giá hối đoái giữa ngân hàng và khách hàng kỳ hạn của nó. nằm ngoài bảng cân đối kế toán.

Do đây chỉ là các cam kết chưa thực hiện ngay nên các khoản này chỉ được hạch toán ngoại bảng chứ không được hạch toán trên bảng cân đối kế toán.
Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, các khoản mục ngoại bảng được chia thành:

– Nghĩa vụ nợ ngầm: Theo các chuyên gia, đây là rủi ro tiềm ẩn nhất trong hoạt động ngân hàng. Chủ yếu đến từ các cam kết bảo lãnh khoản vay (thấu chi), cam kết nghiệp vụ L/C và các cam kết bảo lãnh khác (bảo lãnh thanh toán, thực hiện hợp đồng, mời thầu…).

– Các cam kết ngoại bảng: Có rủi ro nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng các cam kết ngoại bảng. Cam kết ngoại bảng trong tiếng Anh là: Off-balance sheetcam kết.

2. Quy định về cam kết ngoại bảng trong hoạt động tín dụng:

Căn cứ pháp lý: Thông tư số 24/2013/TT-NHNN Quy định phân loại tài sản có và nợ phải trả ngoại bảng của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

Phương pháp và nguyên tắc phân loại cam kết ngoại bảng:

Đối với việc phân loại cam kết ngoại bảng, các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần thực hiện việc phân loại theo nguyên tắc sau đây:

– Đối với việc phân loại cam kết ngoại bảng, các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần phải sử dụng kết quả phân loại nhóm nợ đối với khách hàng do Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) cung cấp tại thời điểm phân loại để điều chỉnh kết quả tự phân loại nợ, cam kết ngoại bảng.

– Toàn bộ số dư nợ và giá trị các cam kết ngoại bảng của một khách hàng phải được phân loại vào cùng một nhóm nợ có mức độ rủi ro cao nhất mà một khoản nợ hoặc cam kết ngoại bảng của khách hàng đó đang được phân loại.

Thời điểm phân loại cam kết ngoại bảng:

Điều 6 Thông tư số 24/2013/TT-NHNN đã quy định rõ về thời điểm phân loại nợ, cam kết ngoại bảng như sau:

– Ít nhất mỗi quý một lần, trong 15 ngày đầu tiên của tháng đầu tiên của mỗi quý, Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng của quý trước theo quy định tại Thông tư này.

Riêng đối với quý cuối cùng của kỳ kế toán năm, trong 15 ngày làm việc đầu tiên của tháng cuối cùng, Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng của tháng thứ hai quý cuối cùng của kỳ kế toán.

– Ngoài thời điểm quy định trên, Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng theo quy định nội bộ.

Phân loại cam kết ngoại bảng:

– Được xếp vào Nhóm 1 nếu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá khách hàng có khả năng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ khi cam kết.

– Xếp loại từ nhóm 2 trở lên nếu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá khách hàng không có khả năng thực hiện nghĩa vụ khi phát sinh.

– Được phân loại từ nhóm 3 trở lên đối với các cam kết ngoại bảng thuộc một trong các trường hợp nợ quá hạn.

Phân loại các khoản thanh toán theo cam kết ngoại bảng:

– Thời hạn quá hạn được tính kể từ ngày tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết.

– Các khoản thanh toán cam kết ngoại bảng được phân loại như sau:

Xếp vào nhóm 3 nếu chậm dưới 30 ngày. Xếp vào nhóm 4 nếu chậm từ 30 ngày đến dưới 90 ngày.

Phân loại vào Nhóm 5 nếu quá hạn từ 90 ngày trở lên.

– Ngoài ra, nếu phân loại theo phương pháp định tính, các cam kết ngoại bảng được phân loại thành các nhóm cụ thể như sau:

Nhóm 1: Các cam kết ngoại bảng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là khách hàng có khả năng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ khi phát sinh.

Nhóm 2: Các cam kết ngoại bảng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là khách hàng có khả năng thực hiện nghĩa vụ khi phát sinh nhưng có dấu hiệu suy giảm khả năng thực hiện các cam kết.

Nhóm 3: Các cam kết ngoại bảng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là khách hàng không có khả năng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ khi phát sinh.

Nhóm 4: Các cam kết ngoại bảng mà khả năng khách hàng không thực hiện cam kết là rất cao.

Nhóm 5: Các cam kết ngoại bảng mà khách hàng không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ cam kết.

3. Hoạt động ngoại bảng của các ngân hàng thương mại Việt Nam:

Tại Việt Nam, các hoạt động ngoại bảng của ngân hàng chủ yếu là ngoại hối, các công cụ phái sinh và cam kết bảo lãnh khoản vay (thấu chi), cam kết chi và cam kết L/C. Các khoản bảo lãnh khác như bảo lãnh thanh toán… Các đối tượng được các chuyên gia đánh giá, các hoạt động ngoại bảng này trên thực tế sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng.

Những năm qua cho thấy, dưới tác động của dịch Covid-19, hoạt động ngân hàng có nhiều ảnh hưởng, cụ thể là tỷ lệ nợ xấu luôn có xu hướng gia tăng. Cần phải đề cập rằng rủi ro lớn nhất đối với các ngân hàng không chỉ nằm ở khối lượng nợ xấu hiện hữu trên bảng cân đối kế toán mà còn ở nợ tiềm ẩn (nợ tiềm ẩn). Trước tác động tiêu cực của dịch Covid-19, nhiều hạng mục như cam kết bảo lãnh khoản vay, cam kết trong giao dịch L/C (thư bảo lãnh tín dụng) và cam kết trong các bảo lãnh khác… thực chất cũng rất rủi ro. Đặc biệt:

Ngân hàng Quân đội (MB):

Số liệu thống kê được công bố cho thấy, trong quý III/2020, nghĩa vụ nợ tiềm tàng ngoại bảng của Ngân hàng Quân đội MB là 366.733 tỷ đồng (tăng hơn 26,8% so với cùng kỳ năm ngoái). Nợ phải trả khác tăng từ hơn 35 nghìn tỷ đồng lên gần 65 nghìn tỷ đồng. Đặc biệt, khoản phải thu của Ngân hàng Quân đội MB còn chứa đựng yếu tố rủi ro trong tương lai. Cụ thể, tổng số tiền phải bồi thường tăng từ gần 9 nghìn tỷ đồng lên 12.513 tỷ đồng, cụ thể như sau:

– Phải thu liên quan đến dịch vụ thanh toán từ 2.364 tỷ đồng lên 3.748 tỷ đồng.

– Phải thu tài trợ thương mại 2.924 tỷ đồng tăng lên 4.731 tỷ đồng.

– Các khoản phải thu khác tăng từ hơn 952 tỷ đồng lên 1.641 tỷ đồng.

Các khoản này nếu không thu được trong tương lai sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của MBbank.

VPbank:

Theo báo cáo tài chính cuối quý III/2020, nợ xấu trên bảng cân đối kế toán của VPbank tăng từ mức xấp xỉ 5.178 tỷ đồng lên 5.689 tỷ đồng. Ngoài ra, nghĩa vụ nợ tiềm tàng với các khoản cam kết khác của VPbank tăng từ 115,638 tỷ đồng lên 227,275 tỷ đồng. Trong đó, riêng khoản bồi thường cũng tăng từ hơn 14,897 tỷ đồng lên 16,255 tỷ đồng.

Theo quy định hiện hành đối với các cam kết ngoại bảng, các NHTM cũng chỉ thực hiện việc phân loại nợ nhằm mục đích chính là quản lý, giám sát chất lượng tín dụng, không trích lập dự phòng rủi ro. . . Ngân hàng chỉ nên trích lập dự phòng khi rủi ro phát sinh.

Như vậy sẽ làm gia tăng rủi ro tiềm ẩn trong tương lai và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh cũng như lợi nhuận của ngân hàng. Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, từ năm 2012 đến hết tháng 7/2020, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được hơn 1,1 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Nhưng tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ chưa xử lý đã chuyển sang VAMC và nợ có khả năng trở thành nợ xấu của hệ thống các TCTD trong tháng 7/2020 vẫn ở mức 4,47% và con số này được ước tính vẫn ở mức cao và sẽ tiếp tục tăng. tăng lên.’ tăng lên. và sẽ có tác động trực tiếp đến các tổ chức tín dụng.

Trên đây là những thông tin về công nợ ngoại bảng, các đối tượng có thể nắm rõ để hiểu rõ các nghiệp vụ này trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại hiện nay.