Vấn đề pháp lý về chia tài sản chung vợ chồng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Bài viết dưới đây là cập nhật mới nhất về án lệ về chia tài sản chung vợ chồng.
Án lệ về chia tài sản chung vợ chồng được cập nhật là Bản án Phúc thẩm số 04/2020/HNGĐ-PT ngày 05/03/2020 về chia tài sản sau ly hôn của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, cụ thể như sau
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 04/2020/HNGĐ-PT NGÀY 05/03/2020 VỀ CHIA TÀI SẢN SAU LY HÔN
[…]
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án dân sự sơ thẩm ly hôn của Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Chị Nguyễn Thị Lệ H và anh Nguyễn Trung Đ là người cùng quê yêu nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Quảng Bình vào ngày 19 tháng 8 năm 2006. Quá trình chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn nên chị H đã làm đơn xin ly hôn, tại Bản án dân sự sơ thẩm ly hôn số 02/2019/HNGĐ -ST ngày 15/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã Công nhận việc thuận tình ly hôn của của chị Nguyễn Thị Lệ H và anh Nguyễn Trung Đ. Về quan hệ tài sản chung và nợ: Vợ chồng anh, chị có 01 nhà cấp 3 làm trên diện tích đất bố mẹ anh Đ cho vợ chồng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên vợ chồng anh chị tại thửa đất số 349, tờ bản đồ số 18 với diện tích 156,5m2 (100m2 đất ở, 56,5m2 đất vườn) tại xã T, huyện T; các vật dùng trong gia đình, và vợ chồng còn nợ Ngân hàng Đ 77.000.000 đồng nhưng anh chị tự thỏa thuận chia tài sản, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi ly hôn anh chị không thỏa thuận được với nhau về chia tài sản chung nên chị H làm đơn khởi kiện yêu cầu chia đôi tài sản, chị H nhất trí để anh Đ sở hữu nhà và đất nhưng anh Đ phải giao cho chị 500.000.000 đồng nhưng anh Đông không chấp nhận.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2019/DS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã quyết định: Điều 33, Điều 59, 62 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 213 của Bộ luật dân sự. Xử giao cho anh Nguyễn Trung Đ được sở hữu ngôi nhà hai tầng xây dựng với diện tích 99,96m2 và quản lý, sử dụng thửa đất số 349, tờ bản đồ số 18 với diện tích 156,5m2 (100m2 đất ở, 56,5m2 đất vườn) tại xã T, huyện T đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 634414 ngày 19/12/2001. Tổng giá trị nhà, đất là 643.049.000 đồng. Phần giá trị anh Nguyễn Trung Đ được hưởng ½ tổng giá trị là 321.547.000 đồng.
Anh Nguyễn Trung Đ có nghĩa vụ trả 321.547.000 đồng tiền chênh lệch tài sản cho chị Nguyễn Thị Lệ H.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên buộc chịu lãi suất chậm trả, quyền yêu cầu thi hành án, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo cho đương sự theo luật định.
Ngày 26 tháng 11 năm 2019 chị Nguyễn Thị Lệ H nguyên đơn trong vụ án kháng cáo Bản án sơ thẩm số 33/2019/DS – ST ngày 18/11/2019 của Toà án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình về việc giá đất Tòa án áp dụng để xét xử quá thấp đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm chị Nguyễn Thị Lệ H và anh Nguyễn Trung Đ thỏa thuận và yêu cầu Tòa án ghi nhận trong bản án như sau: Anh Đ được sở hữu toàn bộ tài sản chung gồm nhà và đất nhưng anh có nghĩa vụ giao cho Chị H 450.000.000 đồng tiền chênh lệch tài sản.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên toà phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm các đương sự và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của chị Nguyễn Thị Lệ H để sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận sự thỏa thuận của anh Đ, chị H tại phiên tòa và buộc các đương sự chịu án phí theo quy định.
[…]
QUYẾT ĐỊNH
[…]
[…]
Trên đây là cập nhật mới nhất của chúng tôi về án lệ về chia tài sản chung vợ chồng. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính bản thân mình, các bên cần tìm hiểu kỹ các quy định pháp luật, trình tự thủ tục thực hiện thủ tục như nêu trên.